Vua Tự Đức (1829-1883) tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Thì
Vị vua nổi tiếng về hiếu thảo và hay chữ
Theo các tư liệu lịch sử, trong suốt 36 năm làm vua của mình, dù rất bận với công việc triều chính, nhưng cứ ngày lẻ vua thiết triều, còn ngày chẵn vào chầu cung thăm nom mẹ, không khi nào chểnh mảng.
Nhờ được mẹ (Thái hậu Từ Dũ) dạy dỗ nghiêm khắc ngay từ nhỏ, nên vua Tự Đức không vướng vào lối ăn chơi xa xỉ như nhiều hoàng tử khác.
Sửu sách kể lại rằng một hôm rảnh việc nước, vua đi săn tại rừng Thuận Trực, gặp phải khi nước lụt không về được, trong khi chỉ còn hai ngày nữa có kị vua Thiệu Trị. Thấy vua chưa về, Đức Từ Dũ nóng ruột, phải sai quan đại thần Nguyễn Tri Phương đi rước.
Biết làm thái hậu lo lắng nên sau khi về đến cung lúc nửa đêm, nhà vua vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dũ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng.
Vua Tự Đức bèn lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, Đức Từ Dũ xoay mặt ra lấy tay hất cái roi mà ban rằng: “Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị”.
Sau khi rời cung Gia Thọ, ngay trong đêm ấy, vua đã thức rất khuya tại điện Cần Thành để thực hiện những điều mẹ dạy.
Dù thể chất yếu đuối từ nhỏ, nhưng vua Tự Đức luôn siêng năng, cần mẫn, rất chăm lo triều chính. Thường vua thiết triều rất sớm, từ canh Năm đã ngự trên ngai vàng nghe quần thần tâu sớ.
Vua Tự Đức là người đam mê văn chương từ nhỏ. Chính vậy nên, thời Tự Đức văn học rất phát triển, xuất hiện nhiều nhà thơ lớn. Bản thân Tự Đức cũng là một nhà thơ lớn. Theo thống kê, đương thời, vua Tự Đức đã để lại tới 4000 tác phẩm văn học, qua đó, giúp ông trở thành vị vua có nhiều sáng tác văn học nhất trong lịch sử.
Tiêu biểu như bộ Ngự chế Việt sử tổng vịnh gồm hàng trăm bài thơ về các nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều bài thơ trường thiên bằng chữ nôm để dạy đạo lý cho dân như Luận ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca…Trong hoàng tộc, vua cũng đặc biệt quý trọng những người có tài thơ ca.
Nhà vua rất thích lịch sử, ông chính là người đã chỉ đạo cho Quốc sử quán soạn bộ sử lớn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục.
Bi kịch của ông vua hay chữ
Tự Đức là ông vua hay chữ, chuyên tâm trị vì đất nước, nhưng tiếc là cuộc đời ông lại rơi vào tấn bi kịch không hề mong muốn. Chính tấn bi kịch đó đã biến ông thành một ông vua có tội, như chính Tự Đức từng thừa nhận.
Với hoàng tộc, cái “tội” lớn nhất của ông là không có con, còn với dân tộc, ông mang “tội” khi để đất nước rơi vào tay thực dân Pháp.
Sinh thời, do mắc bệnh quai bị lúc nhỏ, nên sau này lớn lên vua Tự Đức luôn gầy yếu, suy nhược, không có con, dù đã có đến hơn 300 bà vợ. Đây chính là “tội” của vua với hoàng tộc.
Đồng thời, gian đoạn nắm quyền của Tự Đức cũng chính là thời kỳ thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta.
Trước họa xâm lăng, vua Tự Đức và triều đình của mình đã không thể giữ gìn được “non sông gấm vóc của dân tộc”. Dưới thời Tự Đức, triều Nguyễn đã phải ký kết nhiều hiệp ước đầu hàng giặc, cho đến khi đất nước chính thức rơi vào tay thực dân Pháp năm 1883.
Tháng 7/1883, vua Tự Đức băng hà khi mới chỉ 54 tuổi. Trước khi mất vua đã cho dựng một tấm bia rất lớn cho dựng ở Khiêm Lăng, trên khắc bài văn do đích thân vua soạn.
Thông thường, con cái sẽ dựng bia cho cha mẹ, nhưng Tự Đức vì không có con nên phải đích thân dựng bia mộ cho mình, cũng qua đó mà thổ lộ với hậu thế về nỗi lòng của ông.
“Các triều đã dày công khó nhọc mở mang đất đai, bỗng nhiên một sớm thấy giao cho địch. Ta cùng với bề tôi thân cận chẳng làm sao hơn, chỉ còn biết nhìn nhau mà nuốt nước mắt đành đắc tội với tôn miều và thiên hạ.
Ôi! Dốt nát mà quen sống yêu ổn, mông muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng, chẳng biết phòng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đã tàn tạ hơn phân nửa, mấy ai có thể khôi phục lại lời di huấn về việc canh giữ biên cương của cha ta để giúp ta bước khỏi vòng tội lỗi” (Trích lời tựa trên bia mộ Tự Đức ở Khiêm Lăng)
Có thể nói, đây là lời nhận lỗi chân thành của ông ông vua trị vì đất nước trước giai đoạn thử thách của lịch sử. Bài văn bia dài với những từ rất thống thiết, nói lên nỗi lòng của ông vua đầy lương tâm và trách nhiệm, nhưng bất lực trước thử thách, những tình huống vượt qua khỏi khả năng, thời đại, triều đại của ông.